HƯƠNG ĐẠO VÀ TRẦM HƯƠNG – NGHỆ THUẬT CỦA SỰ THANH TỊNH
HƯƠNG ĐẠO VÀ TRẦM HƯƠNG – NGHỆ THUẬT CỦA SỰ THANH TỊNH
HƯƠNG ĐẠO VÀ TRẦM HƯƠNG – NGHỆ THUẬT CỦA SỰ THANH TỊNH
HƯƠNG ĐẠO VÀ TRẦM HƯƠNG – NGHỆ THUẬT CỦA SỰ THANH TỊNH
Người Á Đông đa phần đều tin rằng hương thơm của trầm chính là nhịp cầu kết nối giữa hai thế giới: thế giới thực tại và thế giới tâm linh. Làn hương vừa gần gũi, vừa thiêng liêng ấy giúp người ta thanh tẩy tâm hồn và ngẫm ngợi nhiều điều.
Nghệ thuật hương đạo và trầm hương Việt
Cũng giống như trà đạo là nghệ thuật thưởng thức trà, hương đạo chính là nghệ thuật thưởng thức hương thơm của trầm – một loại hình nghệ thuật độc đáo bắt nguồn từ Nhật Bản rồi lan truyền rộng sang các nước khác ở châu Á và Trung Đông.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hương đạo bắt đầu được định hình từ đầu thế kỉ 15, song trên thực tế, thú chơi tao nhã này đã bắt nguồn từ rất lâu, từ khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc và Triều Tiên (khoảng thế kỉ 6). Có rất nhiều loại hương liệu để thưởng thức như các loại hoa, lá, trái cây, nhựa cây, khoáng vật và các loại gỗ thơm… song được ưa chuộng nhất vẫn là hương thơm của trầm.
Ở Việt Nam, trầm hương được coi là một loại hương liệu thiêng liêng do bắt nguồn từ một truyền thuyết xa xưa: Nữ thần Thiên Y A Na –
Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa.
Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau, nhưng đại để như sau:
Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lý do nào đó, phải giáng trần!
Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ). Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, Thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được. Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà. Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu sinh.
Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay...và toàn bộ những người đến từ phương Bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể.[2] Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài ký, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, đề có một sự tích nữa, tóm gọn như sau:
Một Thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Lại truyền tụng thêm một câu chuyện khác, theo nhà văn Sơn Nam, đó là ngày xưa "có một phú thương người Hoa thử mua hoặc đánh tráo khúc trầm, đưa lên ghe chở về Tàu, thì giông tố liền nổi lên, khiến thuyền phải quay về chỗ cũ"
Trầm hương được lấy từ cây trầm, trầm gió hay dó bầu, phân bố nhiều ở các cánh rừng miền Trung Việt Nam và các nước như Lào, Ấn Độ… Loại trầm thường thấy ở nước ta là do cây dó bầu bị sâu bệnh, tiết ra nhựa để bao bọc “vết thương”; nhựa này đông cứng lại rồi qua nhiều năm trở thành trầm. Trầm hương khai thác ở các khu rừng rậm thuộc các tỉnh miền Trung Việt Nam có chất lượng rất tốt, nổi tiếng khắp thế giới, đặc biệt là loại trầm “kỳ nam”.
Cung đình nhà Nguyễn đã từng ghi chép lại: trầm hương tích tụ khí thiêng của đất trời, có tác dụng tẩy trừ mọi ô uế trong không gian, giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, bệnh tiêu hoá, bài tiết, thận và tim mạch, chính là thứ trân quý nhất. Có lẽ bởi lý do này, từ xa xưa, trầm đã được coi là “vua của các mùi hương”. Từ hàng ngàn năm nay, trầm hương đã được sử dụng để xông trong các cung điện vua chúa hay những nơi linh thiêng, trong các nghi lễ của Phật giáo…
Mùi hương của sự thanh tịnh
Trong thiên nhiên có rất nhiều loài thực vật có tinh dầu, có thể phát tán hương thơm trong không gian, nhưng chỉ có trầm là nguồn phát hương không bao giờ cạn, từ lúc còn là cây gỗ trong rừng núi sâu thẳm cho đến khi được đem đi chế tác và lưu giữ. Hương trầm bao hàm đủ ngũ vị: ngọt, mặn, chua, cay, đắng và phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được (riêng kỳ nam có ít tầng hương hơn và không có vị ngọt). Bà Fusako Imaizumi, trưởng phái Hương đạo Shino Nhật Bản cho rằng: “Hương thơm của trầm được chia thành 6 loại, bao gồm 5 vị đến từ 6 nước: hương trầm từ Việt Nam thiên về vị đắng, từ Thái Lan lại thiên ngọt, từ Malacca và Malaysia thì không có vị, từ Bồ Đào Nha thì thiên mặn, từ Indonesia có vị chua và từ Ấn Độ thì có vị cay…”.
Để thưởng thức hương thơm của trầm, từ rất lâu trước đây, người ta đã phát minh ra một dụng cụ dùng để xông hương, đó là các lư hương bằng đồng, gốm hoặc gỗ. Theo các chuyên gia, một loại trầm thông thường khi cho vào xông hương sẽ có 8 lần phát hương trong vòng 24h. Mỗi lần phát hương là một phức hợp mùi vị khác nhau: khi thì vani, khi thì mùi gỗ thông hay mùi xạ hương… Điều lạ lùng hơn cả là trong những thời điểm giống nhau nhưng tại các địa điểm khác nhau, mùi thơm của trầm lại có sự thay đổi. Bởi thế, trầm được xem là “danh hương”, quý giá hơn cả vàng bạc.
So với trà đạo, hương đạo có một vị trí khiêm tốn hơn, được ít người biết tới hơn và cũng kén người thưởng thức hơn bởi tính trừu tượng, vô hình vô ảnh của làn hương và sự khó khăn trong việc ghi nhớ, gọi tên từng mùi vị phức tạp. Hương đạo đòi hỏi người chơi phải có giác quan nhạy bén, tâm hồn tinh tế và thanh tịnh mới có thể cảm nhận và thưởng thức được. Bởi vậy, mặc dù việc thưởng hương chủ yếu phụ thuộc vào khứu giác, nhưng thay vì gọi là “ngửi hương”, những người đam mê hương đạo lại dùng cách gọi là “nghe hương” để biểu thị sự nhạy cảm của các giác quan và sự tinh tế của tâm hồn người chơi.
Thưởng hương cũng là một quá trình cần khổ luyện, trong đó, người chơi phải có tâm hồn trong sáng, yên bình và tình yêu thiên nhiên rộng mở mới có thể “ngộ” được thú chơi này. Để “nghe” trọn vẹn được một cuộc hương, người thưởng thức phải chuẩn bị cả tư thế lẫn tâm thế: dáng ngồi ngay thẳng, thư thái; tay trái giữ chén hương trầm, từ từ nâng lên để ngang tầm mũi; tay phải nhẹ nhàng che hờ trên miệng chén để làn hương mỏng manh trôi qua khoảng không giữa ngón trỏ và ngón cái; rồi chậm rãi hít ba hơi thật sâu. Làn hương trầm thơm qua mũi, ngấm vào những mạch máu, đi qua tim rồi chạm tới đáy sâu tâm hồn.
Người thưởng hương phải đạt được độ tĩnh tại, sâu lắng mới có thể nghe ra chất hương và gọi thành tên của từng mùi vị; từ đó, nương theo làn hương để thanh tẩy mình khỏi những tạp niệm, tận hưởng sự tĩnh lặng, yên bình giữa cuộc sống ồn ào, náo nhiệt.
CÔNG TY TNHH Trầm Hương Tâm Tín
Địa chỉ: ( làng nghề xoi trầm ) Thôn Phú Hội 1- Xã Vạn Thắng - Huyện Vạn Ninh - Khánh Hòa
Điện thoại: 0815.38.28.38
Email: tramhuongtamtin@gmail.com
Website: tramhuongtamtin.com
Có thể bạn quan tâm:
Trầm Hương Tâm Tín
Trầm hương là phần gỗ chứa nhiều nhựa thơm sinh ra từ thân cây Dó mọc nhiều ở trong những cánh rừng già Nam Bộ Việt Nam. Khi cây Dó bị tổn thương (do bom đạn, thiên tai, con người…), cây sẽ tiết ra nhựa thơm để chữa lành vết thương trên thân, phần gỗ bị tổn thương được tích dầu trở thành một loại gỗ quý thơm, đó chính là Trầm hương. Do đó, đây cũng là đặc điểm giúp người đi địu tìm Trầm (hay còn gọi là phu Trầm) phát hiện ra cây có Trầm hương, thường là những cây bị bom đạn găm vào, cây bị giông gió làm gãy cành hay bị sét đánh.. + Đặt mua ngay